| |
|
| Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Hoằng Hóa | |
| | Sat Jul 16, 2011 2:52 pm | | SweetLove
| Giới tính : Số Bài Viết : 145 Tài Sản $ : 2426719 Thanked : 9 Ngày Sinh : 30/11/1945 Ngày Tham Gia : 07/07/2011 Đến từ : Hoằng Hóa Quê Ta Tâm Trạng : Cô Đơn Vây Quanh Căn Phòng
|
| | Tiêu đề: Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Hoằng Hóa | |
| | Hoằng Hóa Quê Tôi.Com -Quê Hương Yêu Dấu Tiêu Đề : Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Hoằng Hóa
| | | | Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Hoằng Hóa
Nói đến Hoằng Hoá là nói về đức hiếu học, về những nghề truyền thống và sự khéo tay của người dân nơi đây. Nhiều nghề truyền thống đến nay vẫn được người dân trong huyện phát triển đi lên theo vòng quay của cuộc sống. Song bên cạnh đó, cũng có nghề đã mai một, hoặc không còn tồn tại cho đến ngày nay. 1. Nghề thợ mộc ở Ðạt Tài, Hạ Vũ, Hà Thái Ba làng Ðạt Tài, Hạ Vũ, Hà Thái thuộc xã Hà Dương, tổng Bút Sơn (cũ). Theo lời kể của các cụ ở Hoằng Ðạt, Hoằng Hà, nghề mộc ở 3 làng này nổi tiếng cách đây đã ba, bốn trăm năm. Người truyền nghề cho dân vùng này quê gốc ở ý Yên, trấn Nam Sơn (cũ), nay là Hà Nam. Ông vốn là thợ cả của một đoàn thợ mộc, vào đây làm nhà, lấy vợ người Ðạt Tài, truyền nghề cho dân Ðạt Tài, sau đó lan sang Hạ Vũ, Hà Thái,... Thợ mộc ở ba làng này không chỉ làm nhà - đình - chùa - nghè - nhà thánh, cung điện mà còn kiêm cả nghề thợ khảm, chạm cửa võng hoàng phi, chạm long, ly, quy, phụng, chạm ngư tiều canh mục, chạm bát bửu và làm kiệu, hương án, khám thờ, tạc tượng phật, tượng thần. Giờ đây, sắt thép và xi măng đang dần thay thế đồ gỗ trong các công trình kiến trúc. Vì thế, những người thợ mộc ở Ðạt Tài, Hạ Vũ, Hà Thái tài năng đang phải đa dạng hoá sản phẩm, để phù hợp với điều kiện xã hội và tâm lý con người trong thời đại mới nhằm bảo tồn và phát huy nghề truyền thống của cha ông.
2. Nghề dệt vải tơ lụa ở Nghĩa Hưng Nghề dệt vải đã có từ rất lâu đời ở nhiều làng của huyện Hoằng Hoá. Vải của mỗi làng đều mang nét riêng độc đáo và gắn với tên tuổi của làng đó như: vải kẻ Ðầng (Phú Khê), vải kẻ Tổ (Quỳ Chử), vải kẻ Nhợm (Thanh Nga), vải kẻ Tào (Tào Xuyên), vải kẻ Ðằng (Ðằng Xá), vải làng Phùng (Phùng Dực), vải Ðại Ðồng (Hoằng Ðồng),... Song có lẽ nổi tiếng hơn cả là vải Nghĩa Hưng, hay còn gọi là vải vùng chợ Quăng. Bí quyết làm nên sự nổi tiếng của vải Nghĩa Hưng chính là ở đôi bàn tay khéo léo với tay nghề tinh sảo, kỹ thuật điêu luyện của những cô gái vùng chợ Quăng, nhờ đó hàng dệt ra đã đẹp lại bền. Vải nhuộm nâu hoặc nhuộm màu thì càng đẹp, càng bền, làm say lòng khách hàng thuộc mọi lứa tuổi. Người kẻ Quăng dệt vải quanh năm, hầu như nhà nào cũng có khung dệt. Tuy không hợp thành phường, nhưng họ vẫn thường xuyên trao đổi và truyền lại kinh nghiệm cho nhau. Thậm chí, người dân trong vùng còn thi dệt tốt, dệt đẹp, để vải dệt ra "có tiếng". Vải "có tiếng" mới được nhiều người tiêu thụ, mới giữ được phẩm giá cho cá nhân và cả gia đình. Do vậy có câu ca dao: Ai về Hoằng Nghĩa mà xem, Chợ Quăng một tháng bốn mươi hai phiêu điều (đều) Trai mỹ miều gắng công đèn sách Gái thanh tân chăm mạch cửi canh Gái thì dệt cửi vừa nhanh vừa tài Phải "dệt cửi vừa nhanh vừa tài" và giữ tiếng thì "gái thanh tân" mới được các chàng thư sinh mến, mới được các nhà khoa bảng "nhăm nhe" cho con trai mình. Do vậy, đến phiên chợ Quăng, đình làng vải đông nghịt người. Người đi mua vải, mua tơ lụa đã đông mà các chàng trai đi ngắm nhìn các cô gái Hằng Nghĩa, Nguyệt Viên,... ngồi bán vải, bán tơ lụa cũng đông không kém. Ngày nay, bà con vùng kẻ Quăng dệt vải thước, vải màn bằng khung cải tiến, song chất lượng cũng không kém bất cứ nơi nào trong cả nước. 3. Nghề đúc lưỡi cày ở Ðồng Lạc (Hoằng Trạch) Người dân Ðồng Lạc làm nghề đúc lưỡi cày đã gần 300 năm nay. Theo bà con trong làng kể lại: một người ở Thác Nghè (Thiệu Yên, Thanh Hoá) đã truyền nghề này cho họ Lê Thiệu. Lưỡi cày Ðồng Lạc bán khắp hạt Hoằng Hoá, sang cả Quảng Xương, Ðông Sơn, qua Hậu Lộc, Hà Trung. Lưỡi cày và diệp cày được đúc bằng gang, nên người đi bán lưỡi cày, diệp cày cũng chính là người đi đổi lưỡi cày và diệp cày cũ đã cùn hoặc bị gãy mang về làm nguyên liệu. Dụng cụ đúc lưỡi cày gồm một cái bễ, làm bằng cây gỗ lim chẻ đôi, lọng ruột, ốp lại rồi gắn bằng hồ đặc biệt gồm vôi, lá bới lời, bồ hóng giã kỹ trộn với mật. Ðường kính của bễ khoảng 30 - 40cm, thân dài khoảng 4m. Gương bễ hay lòng bễ (piston) được kết bằng lông cổ gà trống. Lúc kéo gương bễ phải dùng đến sức người để điều khiển lòng bễ. Quan trọng nhất là người cầm cái guốc của cán lòng bễ phải khoẻ và có kỹ thuật cao. Lòng bễ có một cái rãnh, lỗ hơi ra để phụt vào nồi gang nằm giữa ống bễ. Lúc đúc lưỡi cày, bễ phải để nghiêng khoảng 300. Nồi đúc bằng gang, mặt nồi có trát một lớp đất mỏng. Gang chảy theo một cái khe, từ đó đổ vào khuôn. Khuôn lằm bằng đất, cốt bằng gang. Gang đổ vào khuôn để nguội, dỡ khuôn ra, lấy lưỡi cày và diệp cày. Tất nhiên phải dùng dao, cái giũa,... kỳ cọ không nhiều để lưỡi cày và diệp cày được tinh tươm. Ngoài ra, muốn xem kỹ thuật cao hay thấp, lưỡi và diệp cày đẹp hay không còn phụ thuộc vào dòng chảy của gang, kỹ thuật đổ khuôn, và tay nghề của người thợ khi làm khuôn nữa. Có thể nói, nghề đúc lưỡi cày ở Ðồng Lạc khá vất vả. Song điều khiến nông dân huyện Hoằng Hoá luôn tự hào chính là ở danh tiếng của lưỡi cày Ðồng Lạc. 4. Nghề làm nước mắm ở Khúc Phụ (Hoằng Phụ) Không phải làng nào có nghề đánh cá biển cũng làm được nước mắm. Trong số 5 xã biển huyện Hoằng Hoá chỉ có làng Khúc Phụ (giờ đây có thêm Hoằng Trường cũng ướp chượp và nấu nước mắm) làm nước mắm. Ðể làm nước mắm ngon, công đoạn đầu tiên là phải chọn cá. Cá nục hoặc cá thu ù, nhưng thường là cá nục (vì cá nục có nhiều đạm) là nguyên liệu được người dân Khúc Phụ "ưu tiên" lựa chọn. Nước mắm Khúc Phụ loại nỏ đầu, loại đặc biệt, để lâu là một "tài sản quý". Uống một chén nhỏ sẽ tăng sức chịu rét cho người đi biển vào mùa đông, tăng sức khoẻ cho người thợ lặn, chữa được bệnh đau bụng gió, đau bụng bão. 5. Nghề nhuộm ở Trinh Hà (Hoằng Trung) Nghề nhuộm ở Trinh Hà đã có từ rất lâu đời và cũng do một người gốc Bắc truyền cho bí quyết làm nghề. Nghề nhuộm ở Trinh Hà cũng phân ra nhiều loại: Nhuộm chàm, nguyên liệu nhuộm được lấy từ cây chàm. Khi cây chàm đã tốt, bà con bứt lá bỏ vào những chiếc thùng đặt cạnh rệ bờ sông và đổ nước vào ngâm. Ngâm đến khi lá mục ra, lấy gậy quấy lên, vừa quấy vừa vớt xương lá ra, quấy đến khi nào mặt nước sóng sánh màu xanh rồi chờ tinh bột lắng xuống. Khi tinh bột đã lắng hết, người dân Trinh Hà tháo nỏ cho nước trong chảy ra và gạn lấy tinh bột. Sau đó, làm cho tinh bột đặc quánh lại rồi mới đem cô để bỏ vào chum. Khi nhuộm chàm, thợ nhuộm múc tinh bột chàm hoà với nước. Tạp chất này tạo ra một loại vi khuẩn tựa như dấm thanh, để tinh chàm cắn vào vải, màu sẽ bền. Nhuộm thâm, nguyên liệu chính để nhuộm thâm chính là bùn ao. Bùn càng dẻo càng đen thì vải nhuộm càng tốt. Ðể nhuộm thâm, vải, lụa khi mua về phải giặt cho hết hồ rồi nấu nước lá sòi, lá trâm, lá bàng cho thật đặc. Nếu là tơ, lụa thì lá sòi nhiều; nếu là vải thì lá trâm, lá bàng nhiều. Khi nhuộm thì phải nhuộm ba lần, mỗi lần nhuộm xong đem ra thổ lại cho hết bùn rồi lại nhuộm tiếp. Không chỉ có vậy, người thợ nhuộm Trinh Hà còn bỏ vải hoặc tơ lụa trên một hòn lăn nhẵn bóng, dùng vồ đập cho vải đều sợi, láng sợi rồi mới gấp lại đem bán. Nhuộm nâu, nguyên liệu chủ yếu bằng củ nâu và vỏ rà. Vỏ rà phải nấu sôi lên để thật lâu; củ nâu phải giã nhỏ, giã xong đổ nước vào quấy đều, để bã lắng xuống rồi múc lấy nước đổ vào một cái chậu đem vải hoặc tơ lụa bỏ vào nhuộm. Nhuộm xong đem phơi khô rồi lại nhuộm tiếp, cứ thế nhuộm đi, nhuộm lại nhiều lần. Bà con làng nghề thường nhuộm nâu trước, nhuộm vỏ rà sau. Nhuộm đến khi đạt yêu cầu rồi hồ với nước keo da trâu, da bò hoặc nước cháo gạo nếp. Trước khi đem bán, thợ dệt cũng để lên hòn đá lăn đập qua cho bải hoặc tơ lụa đều sợi, mướt màu như nhuộm thâm. Nghề nhuộm ở Trinh Hà nay không còn, nhưng nhân dân cả vùng Hoằng Hoá và Hậu Lộc vẫn còn nhắc đến những người thợ nhuộm ở Trinh Hà đã đem lại cho họ những tấm quần, tấm áo bền màu để dãi dầu cùng sương gió trong những ngày lao động vất vả. 6. Nghề đục đá ở Xa Vệ (Hoằng Trung) Ông tổ họ Lê Văn tên là Du đã khai sinh ra nghề này cách đây khoảng 300 năm. Xa Vệ ở dưới chân núi Trán Voi trong dãy núi Son Trang. Tương truyền rằng: tại núi Tráng Voi có loại đá, người dân ở đây thường lấy về làm đá tảng kê cột nhà, làm đá ghép mép hè, đá bao quanh sân, xây cống... Cụ Lê Văn Du thấy những hòn đá ấy trước mềm sau cứng, nhặt về mấy hòn đẽo làm đá mài, trước làm để dùng, sau đem đi bán. Do học hỏi được kinh nghiệm ở nhiều nơi, cụ nảy ra sáng kiến, lên núi vác nhiều hòn đá về, hý hoáy ngồi đục: mấy cái chậu (như chậu sành) đựng nước, đục đá gác cửa, đá tai cửa, đá ghép mép hè, đá ghép quanh sân... cho phẳng và đẹp. Công việc ngày càng hấp dẫn, cụ đục đá máng, đá cột nhà, đá cột nanh, đá tảng... sau đó là cối xay bột, cối xay ngô. Lúc này, nhiều người ở Xa Vệ đã thấy được tác dụng của loại đá ở núi Trán Voi. Nhờ đó, nghề đục đá bắt đầu phát triển. Thợ đục đá ở Xa Vệ đã đục được cả cột hè, trếnh, rui mái hắt,... Nhưng có lẽ gay go nhất vẫn là việc tiêu thụ các sản phẩm này. Vì hàng đá nặng, cồng kềnh nên những ngày phiên chợ Già, họ phải đặt lên xe cút kít nào là đá mài, cối xay bột, cối xay ngô,... đẩy ra chợ bán. Còn máng, cột, đá tảng, đá ghép hè, ghép sân, trếnh,... phải có người đặt theo kích thước nhất định, họ mới làm. Nghĩa là, những loại hàng hoá ấy, những người thợ đục đá ở Xa Vệ đều làm theo các đơn đặt hàng của khách. 7. Nghề đan ở Ðoan Vĩ, Thái Hoà Nghề đan lát ở Ðoan Vĩ và Thái Hoà (thuộc xã Hoằng Thịnh và Hoằng Thái bây giờ) có từ khi nào không ai nhớ, chỉ biết là đã từ rất lâu, cách đây hàng trăm năm, ở hai làng này, không chỉ đàn bà đan giỏi mà đàn ông làm nghề này cũng tài. Có một bài thơ trong đó có câu đã miêu tả về người thợ đan ở đây: Nhe răng xấu đá ngàm cái cạp Thè lưỡi thờn bơn vuốt sợi mây Những dụng cụ phục vụ cho nghề này cũng khá đơn giản, như: mấy con dao dùng để chặt, chẻ nan, vót; vài cái dùi: dùi to nứt cạp nong, dùi nhỏ nứt cạp rổ rửa rau, một cái đòn kê, các loại rá; dùi vừa nứt cạp rổ gòng, rổ xảo,... cùng các loại nguyên liệu như: tre, mây, nứa, vầu, luồng,... Gần đây, người Ðoan Vĩ, Thái Hoà còn đan đồ mỹ nghệ như: hộp đựng đồ trang sức của phụ nữ, đồ chơi của thiếu nhi,.. Hàng đan của Ðoan Vĩ, Thái Hoà đã có mặt ở khắp các chợ trong huyện, sang các huyện bạn, lên chợ tỉnh và đã xuất khẩu sang các nước như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan. Hiện tại, người Ðoan Vĩ, Thái Hoà đang gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt của một số mặt hàng nhựa. Do vậy, họ cần phải nâng cao tay nghề để những mặt hàng đan thật đẹp, thật tinh sảo, thật bền, thật sáng tạo, để giữ gìn nghề truyền thống của cha ông, có thêm uy tín với các khách hàng trong huyện, trong nước và nước ngoài. 8. Nghề ép dầu ở Ðại An và Tào Xuyên Người làng Ðại An (Hoằng Lương) và Tào Xuyên (Hoằng Lý) trước đây có nghề ép dầu bông, dầu lạc; đem dầu và khô dầu đi bán khắp vùng. Dầu bông, dầu lạc dùng để thắp đèn. Riêng dầu lạc còn dùng để thay mỡ, nấu thức ăn. Cũng như các làng nghề thủ công khác ở Hoằng Hoá dầu và khô dầu các loại của Ðại An và Tào Xuyên đã có mặt ở khắp các chợ trong vùng và được đông đảo người tiêu dùng ưa chuộng. Ðây chỉ là một số nghề tiêu biểu trong rất nhiều những làng nghề truyền thống ở Hoằng Hoá. Chính những người thợ này đã nâng cao nền văn hoá vật chất và tinh thần của Hoằng Hoá, làm cho nền văn hoá nơi đây không những có bề dày, mà còn có chiều cao tô thêm rạng rỡ cho mảnh đất Hoằng Hoá. Bởi nghề thủ công truyền thống xét cho cùng cũng là kỹ thuật và mỹ thuật. | | | | |
Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè! |
|
|
| | Sponsored content
|
|
| | Tiêu đề: Re: Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Hoằng Hóa | |
| | Hoằng Hóa Quê Tôi.Com -Quê Hương Yêu Dấu Tiêu Đề : Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở Hoằng Hóa
Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè! |
|
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | | * Viết tiếng Việt có dấu, là tôn trọng người đọc. * Chia sẻ bài sưu tầm có ghi rõ nguồn, là tôn trọng người viết. * Thực hiện những điều trên, là tôn trọng chính mình.-Nếu chèn smilies có vấn đề thì bấm A/a trên phải khung viết bài
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
|
|